MAP 2023 | Khủng hoảng trong Đương đại dành cho Ai? Một thảo luận với Burkhard Meltzer | For Whom is the Contemporary in Crisis? In Dialogue with Burkhard Meltzter
[ENGLISH below]
Khủng hoảng trong Đương đại dành cho Ai? Một thảo luận với Burkhard Meltzer
- bài viết phản hồi của Caroline Levin -
Vào Thứ Tư (18/10), giám tuyển, nhà nghiên cứu, cây viết người Thụy Sĩ Bukhard Meltzer đã thực hiện bài giảng của mình tại Mơ Art Space, cùng với một ghi chú về chuyến bay từ Frankfurt đến Hà Nội để tham dự MAP 2023. Trước khi bắt đầu thảo luận về trải nghiệm của mình tại điểm giao liên ngành – nghệ thuật, thiết kế, viết lách, kiến trúc–, hay những dự án trước đó/hiện tại được dựa trên chủ đề tính di động, ông đã giới thiệu một cách ngắn gọn về niềm yêu thích của bản thân với việc di chuyển trên không: sau tất cả, để bay lên là để di chuyển “mà không có bất kỳ kết nối hữu hình nào về thời gian và địa điểm”. Bài giảng sau đó đưa ra phản tư về những chủ đề hiện sinh xuất hiện trong những năm làm việc của ông trong các lĩnh vực liên quan, điển hình là: nghệ thuật đương đại là gì? (theo cách hiểu ngầm của Meltzer thì đó là 1) một khái niệm tiêu chuẩn của những đặc trưng và hình thái tại nhiều nơi khác nhau, và 2) liên quan đến những điều đang xảy ra trong thời điểm hiện tại)? Và, trong bối cảnh toàn cầu hóa của nghệ thuật đương đại ngày nay, được hiện thực hóa bởi vô vàn những sáng kiến về tính di động giúp cho những nghệ sĩ trên toàn cầu trao đổi về “cái bây giờ” của họ: ‘liệu nghệ thuật đương đại đã trở nên lỗi thời?’ Bài viết này khám phá a) hai câu hỏi mang tính trọng tâm được đưa ra bởi Meltzer trong bài giảng của ông, và b) cuộc hội thoại mở ra từ đó.
Tôi muốn bắt đầu với b): theo đó, những suy tư mang tính lý thuyết này được đón nhận bởi khán giả tại Mơ Gallery như thế nào? Ngay khi Meltzer bắt đầu phần Hỏi&Đáp với khán giả, nghệ sĩ người Hàn Quốc Gemini Kim đặt vấn đề: “Câu hỏi mà tôi đang cố gắng trả lời là: vì sao mọi người lại không muốn đến với đất nước của tôi để thưởng thức nghệ thuật đương đại?”. Anh đang ám chỉ mong muốn đối thoại với Meltzer về vấn đề này, mặc dù không mấy chắc chắn. Meltzer cũng tự hỏi liệu một cuộc hội thoại tương tự đã từng xảy ra. “Có thể đó là anh trong tương lai”, Gemini phản hồi. Meltzer cười – “Điều này thật đáng ngạc nhiên vì tôi luôn cho rằng tôi luôn đến muộn so với thời đại của mình.” Và từ đó, Gemini kết luận: “có thể, tôi và anh, chúng ta chỉ đang sống trong những khoảng thời tính khác nhau.”
Tôi nghĩ về câu chuyện mở đầu của Meltzer giữa cuộc hội thoại của Gemini-Meltzer. Khoảnh khắc lời kết của Gemini được đưa ra, tôi nhìn những hàng ghế Louis Ghosts được xếp ngay ngắn giữa không gian triển lãm những bức tranh rực rỡ của hai nghệ sĩ Lê Brothers tại Mơ. Tất cả chúng tôi đang ở đây, từ những địa điểm, và theo Gemini, thời tính khác nhau. Trong cuộc trò chuyện này, mỗi người chúng tôi không còn bị trói buộc bởi một “khoảng thời không” nhất định tại nơi chúng tôi xuất phát. Trong đầu tôi, hình ảnh về MAP tựa như một chiếc máy bay. Những chiếc ghế Louis Ghosts giờ đây có đai an toàn và khóa cài, những trang bị sẽ giữ chúng tôi yên vị trong bốn tuần tới. Anh Tuấn, Giám đốc Nghệ thuật của Heritage, cùng với Út Quyên, Quản lí Chương trình, hay Thiên Thanh, Điều phối dự án, những thành viên nhóm tư liệu chụp ảnh tại mỗi sự kiện, các phiên dịch viên phiên nối liền khoảng cách ngôn ngữ…Tôi nhìn thấy họ trở thành những phi công, tiếp viên, những cơ thể đang vận hành khí cụ bay này – một ‘không gian’ với bản chất được định nghĩa bởi chuyển động qua những vùng đất rộng lớn. Cũng như cách mà không một ai trong số những người tham dự không-đến-từ-Hà-Nội như chúng tôi có thể tham gia trong cuộc thảo luận này mà thiếu đi máy bay, chúng tôi cũng sẽ không thể có điều kiện được ngồi tại nơi đây, chưa kể đến việc có thể giao tiếp với nhau vượt qua những biên giới và ‘thời tính’, nếu như không có MAP.
Điểm bắt đầu của tôi với lịch sử nghệ thuật là bài khóa luận tốt nghiệp của tôi tại UC Berkeley, nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật đương đại tại Hà Nội từ những năm 1990 đến nay – với điểm đáng chú ý chính là sự xuất hiện của những không gian nghệ thuật độc lập trong thập kỷ này, chẳng hạn như Heritage Space. Đối với Hà Nội, đây dường như chỉ là sự khởi đầu của những trang sách mới về nghệ thuật thị giác – không phải trong những thực hành nghệ thuật đương đại, vốn đã bùng nổ trong điểm giao của thế kỷ, mà trong chính những không gian nghệ thuật độc lập xuất hiện trong thập kỷ vừa qua. Những tác phẩm này đặc biệt mang đầy tính mới lạ, mà không kém phần liên hệ đến với bối cảnh. Với những trải nghiệm mà tôi có trong thời gian qua – mặc dù tôi không cho rằng đây là một quy luật nói chung – đa số những tác phẩm này đều dựa trên một bối cảnh nhất định, phản tư về những hoàn cảnh “ở đây và bây giờ”, và mang tính truy hồi về những điều được ám chỉ trong những bối cảnh này để tạo nghĩa về xã hội đang thay đổi một cách nhanh chóng, thay vì chỉ đơn giản là rao bán những hình ảnh của chúng đến những khán giả nước ngoài. Chỉ trong một vài tuần tại Hà Nội, và bạn sẽ nhanh chóng tìm cho mình thấy niềm hứng thú với những điều thú vị diễn ra phía-sau-sân-khấu của tổ chức văn hoá mang quy mô thành phố này: khi không có một bảo tàng dành riêng cho nghệ thuật đương đại, hay một trường đại học mỹ thuật phá vỡ các khuôn khổ dạy học truyền thống, hay một quy trình chuyên nghiệp để trở thành một giám tuyển, giám đốc nghệ thuật, nhà quản lý văn hoá, v.v,..Khi ta phải vận hành ngoài khuôn khổ mang tính tổ chức: chúng ta sẽ đi về đâu?
Những không gian nghệ thuật độc lập ở Hà Nội – trong đó hoạt động dưới khuôn khổ “đương đại” – là những người đang làm việc cùng nhau để chỉ ra các lỗ hổng này: thành lập nên những không gian vật lý, lưu trữ, kho dữ liệu, chương trình lưu trú- dành cho cả các nghệ sĩ lẫn giám tuyển-, các kho dữ liệu, thư viện, và tư liệu về những phát triển mới nhất của giới nghệ thuật, và những cơ hội cho các nghệ sĩ trong nước hợp tác với mạng lưới nghệ thuật quốc tế,.. để tóm gọn lại, chính là những khía cạnh của một hệ thống văn hoá được cho là nghiễm nhiên ở những nơi được-gọi-là các đô thị nghệ thuật như Berlin. Bạn chứng kiến nỗ lực mang những điều này thành hiện thực để đảm bảo rằng chương hồi này trong lịch sử nghệ thuật sẽ được lưu giữ. ‘Đương đại’ vì vậy không chỉ là một cuộc tranh luận giữa những học giả, nhà lý luận, hay lịch sử gia có chuyên môn trong lĩnh vực nghệ thuật. Ở đây, ‘đương đại’ được xác định bởi a) các vật chất hữu hình – trong các không gian, lưu trữ, thư viện, v.v… -, b) tính di động điển hình, khi mà đời sống nghệ thuật luôn trong trạng thái đi lên, thay vì chỉ đứng yên, và c) được duy trì bởi nỗ lực hợp tác của một cộng đồng địa phương, thay vì chỉ là một lĩnh vực hướng đến danh tiếng.
Trong bối cảnh cuộc đối thoại này giữa những không gian nghệ thuật khác tại Hà Nội, đặc biệt là từ các sáng kiến như Heritage, tôi đặt câu hỏi đến Anh Tuấn suy nghĩ của anh trong phần Hỏi&Đáp sau bài giảng. Anh gợi nhớ lại cho những khán giả đang ngồi trên những chiếc ghế Louis Ghost rằng bản thân từ ‘đương đại’ được du nhập từ Châu Âu; tuy nhiên, quá trình này không chỉ đơn giản là nhân bản lại một định nghĩa đơn thuần, mà thay vào đó là diễn giải nó qua một con mắt rất khác những chủ thể trong ‘trường nhìn’ của nghệ thuật Châu Âu, khám phá nó qua các lớp lang khác nhau, tinh chiết ý nghĩa khi thấy phù hợp, và từ đó mở ra những khả năng tái định nghĩa nó trong những bối cảnh văn hóa khác nhau.
Những cuộc hội thoại như tại đây, được giám tuyển gián tiếp bởi MAP và đội ngũ Heritage, minh họa cho việc làm cách nào tính đa dạng trong bối cảnh văn hóa và thực hành thẩm mỹ giúp chúng ta hình dung ra một sự tái sắp đặt trong trao đổi văn hóa. Nếu như nghệ thuật đương đại đã trở nên lỗi thời, thì nằm ngay tại đó một nhu cầu để xác định những ai đang định nghĩa khái niệm đó, chưa kể đến việc liệu khung thời gian của nó đang ‘hợp’ hay ‘lỗi’ thời. Bài giảng của Meltzer và cuộc hội thoại xoay quanh nó thể hiện khả năng có thể đến khi ta mở rộng hiểu biết của mình về từ ngữ thông dụng này trong giới nghệ thuật đến xa hơn những giới hạn được vạch ra bởi các chuyên gia, nhà đấu giá, và những phòng triển lãm trắng tại Âu-Mỹ. Sự trao đổi văn hóa không thể còn chỉ được nhìn nhận như là việc một nghệ sĩ đến từ một đất nước ngoài phương Tây xuất hiện tại một ‘không gian đương đại’ được công nhận – trong triển lãm, hay chương trình trao đổi. Trao đổi là một cuộc đối thoại song- nếu không nói là đa phương, đồng nghĩa với việc những người tham gia phải cùng có tiếng nói ngang hàng nhau đối với câu hỏi được hỏi. Tính đa nguyên trong lĩnh vực nghệ thuật đương đại không chỉ là vấn đề so sánh các chủ thể xuyên biên giới địa lý và thời không; cho rằng điều đó là đúng chính là thừa nhận ta….trong khi thiếu đi một từ phù hợp hơn: lỗi thời.
Có lẽ tính đa nguyên trong địa lý, thời tính, và cái “bây giờ” thách thức hình dung về tính đương đại đến mức có thể cho rằng nó đã lỗi thời. Tôi nghĩ MAP là một bằng chứng cho tính tái-tưởng-tượng dồi dào của nó – như Meltzer đã miêu tả trong phần Hỏi&Đáp, một sự ‘cởi mở’ cho khái niệm đó. Điều xuất hiện trước ánh sáng của tính đa nguyên này nhìn vào không chỉ những tác phẩm đã hoàn thiện, mà còn là những câu hỏi được đưa ra, một trong số đó là của Gemini. Hình dung này gieo hạt giống cho chúng ta nghĩ xa hơn cái gì là nghệ thuật đương đại, hay khi nào ta nên đánh dấu một sự đứt gãy trong chuỗi sắp xếp của nó, và thay vào đó hướng đến ‘nghệ thuật đương đại đang ở đâu’, hoặc thậm chí, dịch chuyển câu hỏi được đặt ra đến những bối cảnh khác, chẳng hạn như tại Hà Nội: ‘những khoảng trống trong nền nghệ thuật đương đại là gì’, ‘làm thế nào để chúng ta – những người gắn liền với công cuộc này – cùng nhau lấp đầy những khoảng trống đó?’
Sau bài nói chuyện của Meltzer, tôi nghĩ về hành trình bằng đường hàng không của mình tới Hà Nội – cùng với một hiểu biết mới về máy bay như một nơi chốn chứ không đơn thuần là một phương tiện vận chuyển – di chuyển từ một đất nước tới một nơi khác-nhưng tính di động trong không gian máy bay lại rất giới hạn. Tôi lên chuyến bay Los Angeles-Tokyo-Hà Nội của hãng Hàng không Nhật Bản. Hiển nhiên rằng bản thân sân bay Narita là điểm kết nối du lịch Đông Á với vô số chuyến bay trung chuyển. Trong hành trình kéo dài hơn 13 tiếng, tôi ngồi cạnh một người đàn ông Trung Quốc trở về sau lễ tốt nghiệp của cháu gái ông tại Đại học California San Diego để gặp vợ và ghé thăm gia đình bà ở Hồng Kông. Một vài tuần sau ông dự định trở về nhà mình ở Bắc Kinh (ít nhất đây là những gì tôi nghĩ đã được nói ra giữa vô vàn những điều bất-khả-phiên-dịch– cuộc trao đổi được diễn ra chủ yếu dựa vào việc ông cho tôi xem những bức ảnh của những thành viên gia đình không tên). Cuộc trao đổi của chúng tôi bắt đầu bằng việc ông ấy chạm vào vai tôi và nhờ tôi dịch thông báo của hãng hàng không trên màn hình. Dòng chữ in đậm rõ ràng bằng tiếng Nhật, và phụ đề bằng tiếng Anh mà rõ ràng ông không thể hiểu được. Người đàn ông này đang di chuyển xuyên qua lục địa của mình, vùng đất của chính ông, tuy vậy ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi lại được ưu ái và sử dụng trên cả ngôn ngữ của ông, hay bất kì ngôn ngữ địa phương khác không phải tiếng Anh. Tôi nhận thức được rằng việc Tiếng Anh là ngôn ngữ toàn cầu không phải là điều gì quá mới mẻ. Theo một cách nào đó, nhận ra cận cảnh rằng việc di chuyển, dù tôi có cách nhà mình bao xa, sẽ luôn luôn được vạch ra một cách rõ ràng cho tôi, với những biển chỉ dẫn khắp mọi nơi xoa dịu đi sự bức bối của những chuyến đi dài. Trong khi đó, trải nghiệm của người bạn đồng hành trên chuyến bay từ Los Angeles tới Narita vốn sẽ luôn bức bối, khó chịu, và theo một cách nào đó đáng sợ hơn ngay từ điểm bắt đầu.
Tôi nhắc đến câu chuyện nhỏ này với hai lý do: 1) máy bay là một nơi chốn của tính di động đã mang đến một hiểu biết mới với không chỉ bối cảnh văn hóa, mà cả những câu hỏi mà lẽ ra sẽ không đi vào tâm trí tôi, và 2) nghĩ về MAP như một chiếc máy bay, nơi mà ngôn ngữ phổ biến một lần nữa lại là Tiếng Anh (//’đương đại,’ một sản phẩm du nhập từ Âu-Mỹ). Nghệ sĩ và giám tuyển từ mọi ngóc ngách của thế giới tìm thấy họ đang ở đây, tại Hà Nội, trao đổi về bối cảnh của họ chủ yếu bằng một ngôn ngữ gần như không thuộc về ai như là tiếng mẹ đẻ. Giống như trải nghiệm của tôi trên chuyến bay đó, sắp đặt này là một mảnh đất màu mỡ cho những sự lạc-nghĩa, không chỉ trong những từ được nói ra mà trong cả hiện thực văn hóa và những câu hỏi được đặt ra để đóng khung chúng. Bài nói chuyện của Meltzer và cuộc hội thoại theo sau đã khiến tôi nhận ra rằng sự bất-khả-phiên-dịch này không nhất thiết là một sự thiếu sót trong khung cảnh đối thoại văn hóa, mà thay vào đó có thể được nhìn nhận như một phẩm chất hữu ích, một thứ giúp chúng tôi nhìn nhận lại những điều kiện, phạm trù và các chuyển động theo một cách khác đi với những gì của chúng ta quen thuộc với. Tính di động, như là một khái niệm và một trải nghiệm cuộc sống, đã theo đó trở nên thú vị hơn rất nhiều.
Biên tập: Thu Thảo. Ảnh trong bài: Phương Uyên, Hải Lý. Nhận diện thị giác: Dan Ni. Thiết kế: thou
________________
For Whom is the Contemporary in Crisis? In Dialogue with Burkhard Meltzter
- written by Caroline Levin -
On Wednesday, October 18th, Swiss curator, researcher, writer Burkhard Meltzer opened his lecture at Mo Art Space with an anecdote on taking the plane from Frankfurt to Hanoi for the occasion of MAP 2023. Prior to discussing his professional experience at a crossroads of disciplines – art, design, writing, architecture–, or his past/ present projects premised on the theme of mobility, he briefly spoke of his enamorment with air travel: after all, to fly is to move “without any tangible ties to time or location”.The lecture that followed entailed reflections on existential themes that have emerged throughout recent years working in his respective art field, notably: what is contemporary art (the tacit understanding according to Meltzer being 1) ‘a standard concept of features and formats of many places’ and 2) ‘relevant to what happens now’)? And, given the globalized condition of contemporary art today, facilitated by countless initiatives of mobility that allow artists from across the globe to exchange on their respective ‘nows’: ‘is contemporary art outdated?’. This article primarily explores a) these two focal questions tackled by Meltzer during his lecture and b) the conversation that followed.
I’d like to start with b): thus, how such theoretical ponderings were received by the Mo Gallery audience. Upon Meltzer opening the floor to Q&A, South Korean artist Gemini Kim took the mic: “The question I’m trying to find an answer to is: why don’t people want to come to my country to see contemporary art?”. He alluded to a conversation he thought, but was not certain, to have had with Meltzer on the matter. Meltzer was equally uncertain as to whether the conversation ever occurred. “Maybe it was you in the future”, Gemini responded. Meltzer laughed — “this is surprising as I always considered myself as too late for my time.” And so, Gemini concluded: “maybe, you and I, we are just living in different temporalities.”
I thought of Meltzer’s opening anecdote during the Gemini-Meltzer exchange. Upon Gemini’s final remarks, I looked at the rows of aligned Louis Ghost chairs amidst Mo’s current exhibition on the vibrant paintings of the Le brothers. Here we all were, from a multitude of different locations, and according to Gemini, temporalities. In this exchange, each of us was no longer tied down to our singular “time and space” as defined back home. In my head, the visual for MAP began to resemble an airplane. The Louis Ghosts now had belts and buckles, equipment to strap us in for the next 4 weeks. Anh Tuan, Heritage’s artist director, along with Ut Quyen, program manager, or Thien Thanh, artistic project coordinator, the photographers documenting each event, the simultaneous interpreters bridging all language barriers… I saw them becoming the pilots, the stewards/ stewardesses, the bodies conducting the operation of this aircraft— a ‘space’ with an essence defined by movement across vast landscapes. Just as none of us non-Hanoian attendees would be taking part in this discussion were it not for a physical aircraft, we equally would have no capacity to be sitting where we are, let alone to be conversing across borders and ‘temporalities’, were it not for MAP.
My entry point into art history was my senior thesis at UC Berkeley, researching contemporary arts in Hanoi from the 1990s up until today – notably this decade’s most recent chapter of emerging independent art spaces, such as Heritage Space. The question of contemporary arts being ‘outdated’ naturally stunted me. For Hanoi, it appeared to be just the beginning of this city’s visual arts chapter– not in the physical contemporary art practice, which boomed right before the turn of the century, but rather in the physical art spaces that have popped up over the last decade. The pieces themselves are exceptionally refreshing as much as they are ‘relevant’. From the exposure I have had thus far – which is not at all a claim that this operates as a rule of thumb – they are most often context based, reflective on ‘here and now’ circumstances, and inquisitive towards those implicated in this context to make sense of a rapidly evolving society rather than selling an image of this context to foreign audiences. A couple of weeks spent in Hanoi, and you quickly take an interest in the behind the scenes of this city-wide cultural organization: when there is not a designated contemporary arts museum, nor an arts university that breaks from traditional teaching, or a process of professional formation to become a curator, artistic director, cultural manager, etc…. When one must operate outside of an institutional framework: where do we go?
The independent art spaces of Hanoi – most of which operate under the ‘contemporary’ umbrella term – are those collectively working to address these gaps: in establishing physical spaces, archival reservoirs, databases, residencies– for artists and curators alike–, databases, libraries, general documentation on the scene’s recent developments, and opportunities for domestic artists to collaborate with international art networks… in short, aspects of cultural infrastructure that are most often treated as a given in the so-called contemporary art cities such as Berlin. You witness the current efforts at bringing them to life so as to ensure this chapter in art history does not go unwritten. ‘Contemporary’ is thus not a theoretical debate among scholars, theorists, historians in an established art field. Here, ‘contemporary’ is characterized by a) a tangible materiality – in the spaces, the archives, the libraries, etc. –, b) a momentous mobility as the scene is the process of ascending, not stagnating, and c) it is sustained by the collaborative working hands of a local community, not a status oriented field.
Given this work among art spaces in Hanoi, notably by initiatives such as Heritage, I asked Anh Tuan for his thoughts post-talk Q&A. He reminded the audience seated in Louis Ghosts that the very word ‘contemporary’ was an import from Europe; however, the process was not merely replicating a single definition, but rather interpreting it through eyes different than those of the European art ‘field’, exploring it layer upon layer, extracting meaning where deemed fit, and thus laying out the possibilities of redefining it in an alternative cultural context. There is a reason contemporary art cannot be limited to a singular identity across the board, notably in comparing art scenes ranging from Hanoi to Seoul to Munich. Meltzer discussed how globalization is a defining condition of contemporary arts ever since the 90s. While globalization is a defining force, he also suggests that it could be the very element that challenges it given the plurality of “nows” that render it as an umbrella term all the more complicated and contradictory.
Conversations such as this one, indirectly curated by MAP and the Heritage team, illustrate how a plurality of cultural narratives and aesthetic practices allow us to envision a remapping of cultural exchange. If contemporary art is outdated, there first lies a need to identify those defining the term itself, let alone its timeline in being ‘in’ or ‘out’ of fashion. Meltzer’s talk and the conversation that surrounded it embodies the possibilities that come when we expand our understanding of art world buzzwords beyond the limitations as outlined by Euroamerican experts, auction houses, and white cube galleries. Cultural exchange can no longer be seen as just a matter of artists from non-Western countries making an appearance in those recognized ‘contemporary spaces’ – in exhibition, or exchange programs. Exchange is a bi– if not multi–lateral dialogue, meaning those involved have equal say in the very questions being asked. Pluralism in the realm of contemporary art is not just a matter of comparing subject matters across geographical – or even temporal – borders ; to assume such would be… for lack of better word: outdated.
Perhaps this pluralism in geographies, temporalities, and general ‘nows’ challenges the conception of contemporary insofar as to render it obsolete. I think MAP is proof rather of its fruitful re-imagining – as Meltzer describes post-Q&A, an ‘openness’ to the term. What comes out of shedding a light on this pluralism, examining not just the end-result works but the very questions being asked, such as that of Gemini. It plants a seed for us to think beyond what is contemporary art or when we should begin to mark a rupture in its chronology, and on-towards ‘where is contemporary art’, or even, to mobilize questions asked in alternative contemporary arts contexts, such as that of Hanoi: ‘what are the gaps in the contemporary art scene’, ‘how do we - those implicated in the stakes – collaboratively fill them?’.
Following Meltzer’s talk, I thought about my own air-travel journey to Hanoi – keeping in mind this new understanding of the airplane as its own site not just of mobility proper – moving from one country to another – but of mobility within the plane’s very closed-up confines. I flew with Japan Airlines LAX-Tokyo-Hanoi. Obviously Narita Airport is its own node of east Asian travel with umpteenth transfer flights. For the 13h hour journey, I was seated next to an old Chinese man returning from his granddaughter’s graduation from University of California San Diego to now meet his wife visiting her family in Hong Kong. A couple weeks later he planned to go back home to Beijing (at least this is what I think was said amidst an abundance of lost-in-translations – the exchange was primarily based on him showing me photos of unnamed family members). Our initial exchange came from him tapping me on the shoulder and asking that I translate the airlines’ announcements on the screen. The bold writing was obviously in Japanese, the subtitles in English which he couldn’t read, only orally understand. This man was traveling through his own continent, own region, and yet my native tongue was going to be accommodated above his and that of any other non-English native speaker. I am aware that English as a universal language is not breaking news. Somehow having the close-up realization that travel, regardless of how far from my home, will always be something so easily outlined for me, guideposts everywhere easing the angst of a lengthy journey. Meanwhile, my LAX-Narita companion’s experience is inherently more frustrating, uncomfortable and to some extent scarier from the get-go.
I mention this anecdote for two reasons: 1) the airplane as a site of mobility that brings to light not just new cultural narratives but also questions that wouldn’t permeate my mind otherwise; and 2) thinking of MAP as airplane, where the universal language is yet again English (// ‘contemporary’, a Euroamerican import). Artists and curators coming from every corner of the world find themselves here, in Hanoi, conversing ideas from their respective contexts primarily in a language that belongs to almost nobody as native tongue. Similarly to my experience in the airplane, this setting is fertile ground for lost-translation, not just in spoken word but in cultural realities and the very questions that frame them. Meltzer’s talk and the discussion that followed made me realize that this lost-in-translation is not necessarily a shortcoming of these sites of cultural exchange but rather can be treated as a productive quality, one which allows us to reassess conditions, categories, and movements in a light alternative to our own. Mobility, as both a concept and life experience, consequently become all the more interesting.
Editor: Thu Thảo. Photos: Phương Uyên, Hải Lý. Key Visual: Dan Ni. Design: thou.
Back | ||||||||||||